Quan Âm Tứ Thủ – 16 ý nghĩa sắc thân

Chúng ta hình dung cơ thể của Đức Quan Âm trong sáng và thuần khiết như một ngàn vầng trăng mùa thu tỏa sáng khắp nơi. Nếu bạn cảm thấy sự mát mẻ của ánh trăng, đó là một ngàn ánh trăng. Vì đây là ánh trăng của tình thương và lòng từ bi chữa lành những đau khổ, đau khổ của chúng sinh. Như vậy, cơ thể Ngài phát ra ánh sáng ngũ sắc. Nhưng chủ yếu là ánh sáng trắng.

Khi nhìn vào hình dáng của các vị thần và phật, điều đầu tiên bạn cảm nhận được là hoa sen thuần khiết với hương thơm thanh khiết như hoa sen thật. Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu rằng hoa sen Tịnh độ không phải là hoa sen bình thường, mà là trí tuệ tâm linh. Hoa sen đĩa trăng thanh thanh khiết. Đĩa mặt trăng có âm tiết là HRI (ཧྲཱ ི ཿ), là hạt giống hình thể và thể hiện sự kết hợp giữa lòng từ bi và trí tuệ của Đức Phật.

Từ hạt giống này chuyển thành hình thức của Phật quả mà chúng ta thực hành. Phần này là thần chú của Tâm Chú Đại Bi, vì vậy chúng ta hãy tưởng tượng về Đức Quan Âm, còn được gọi là Quan Âm Tứ Thủ.

Quan Âm Tủ Thủ
Quan Âm Tủ Thủ

Hãy thiền định về bản chất hoàn hảo của Quán Thế Âm như sau.

1. Đức Quan Âm có một khuôn mặt, bởi vì tất cả Pháp đều giống như Pháp thân.

2. Nụ cười của Ngài rạng rỡ vì lòng từ bi của Ngài đối với tất cả chúng sinh. Khi hành giả chiêm ngưỡng khuôn mặt của Đức Phật Quan Âm, người đó phải trải nghiệm những phẩm chất của sự giác ngộ. 3. Nhìn thấy tất cả nỗi thống khổ của sáu nẻo luân hồi, nỗi thống khổ của tất cả chúng sinh, đôi mắt của Ngài rộng mở cho tất cả chúng sinh.

4. Khi đang cầu khẩn chư Phật Mười phương liên tục hành thiện để cứu độ, cứu giúp và thức tỉnh chúng sinh, Ngài chắp tay trước ngực, trì giữ bảo châu Như ý, mong nguyện năng lực ấy của Ngài cùng với mười phương chư Phật sẽ đem lại viên mãn tâm nguyện cho tất thảy chúng sinh. 

5. Ngài trì giữ chuỗi tràng pha lê (tràng thạch anh trắng) trong tay phải. Bởi Bồ đề tâm thanh tịnh làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, không dừng nghỉ.

6. Tay trái cầm hoa sen ngang tai, vì bản chất của Quân là nhân từ, tình yêu trong sáng, không tỳ vết, không bị bất cứ ràng buộc cứng rắn và ích kỷ nào làm nhơ bẩn.

7. Ngài an tọa trong tư thế kiết già, bởi tự tính của chúng sinh và vạn pháp là sự hợp nhất của trí tuệ với tình yêu thương.

8. Ngài khoác trên mình tấm da nai nêu biểu cho đồng sự, hiện muôn hình tướng làm lợi ích cho chúng sinh. Bởi Ngài luôn đồng cam cộng khổ mà ứng thân vào lục đạo luân hồi, tùy duyên nghiệp chúng sinh.

9. Với tâm từ bi, tình yêu thương, trí tuệ thông suốt và năng lực vô biên mà Ngài làm lợi ích cho tất thảy chúng sinh, tùy duyên vào thế gian nhưng bất biến. Bằng tất cả tâm nguyện, hoàn cảnh sống của mọi chúng sinh mà ứng thân cứu độ, luôn an trụ trong tâm thanh tịnh giác ngộ, do đó thiên y của Ngài mềm mại tựa lụa là.

Hai đầu của dải lụa luôn hướng lên trên biểu tượng Ngài luôn chiến thắng tham, sân, si, khổ tâm, đem lại sự bình yên, mát lành cho chúng sinh.

10. Đức Phật Di Đà – Thượng sư của Ngài là Pháp thân, đối tượng của trái tim chân thành của Ngài, còn Đức Quan Âm là tình yêu thương thể hiện trong các hành động cứu người, Đức Phật A Di Đà ngự trên vương miện của đầu, đại diện cho sự hợp nhất hoàn hảo của tình yêu và trí tuệ giác ngộ.

Đức Phật A Di Đà ngự phía trên Quan Âm Tứ Thủ
Đức Phật A Di Đà ngự phía trên Quan Âm Tứ Thủ

11. Sau khi hoàn toàn lấp đầy tất cả các ba-la-mật, Ngài tự trang hoàng cho mình bằng các báu vật. Kể từ khi Ngài nhận ra trí tuệ của Ngũ Trí Phật, trí tuệ vốn có trong bản thân và tất cả chúng sinh, đầu Ngài được đội những bảo vật quý giá của Ngũ Phật và vương miện của Ngài được trang trí bằng hình của Đức A Di Đà.

Bởi vì Ngài hiểu được chân lý tương đối và tuyệt đối không thể phân chia, theo lợi ích của chúng sinh, theo cách Ngài lan tỏa tình yêu thương và trí tuệ trong mọi ngõ ngách của cuộc sống, Ngài đeo đôi bông tai bên phải và bên trái của mình.

12. Vì đã giác ngộ được ba thân Phật (Pháp thân, Báo thân và Hóa thân), nên Ngài đeo ba chuỗi hạt quanh cổ.

13. Đối với tất cả những phẩm chất giác ngộ được thể hiện bằng các hành vi từ bi, hỷ xả, bác ái, đạo đức, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ được chứng ngộ trọn vẹn, Nên tay chân Quan Âm đều được trang sức bằng bảo báu.

Tại thời điểm này, tưởng tượng ra hình dáng đầy đủ và trang trí quý giá của mình, Ngài đã quán tưởng ra vô số tia sáng thuần khiết chiếu sáng vũ trụ, gia trì cho bản thân và tất cả chúng sinh. Trong lúc đó, chúng sinh cùng khẩn cầu Đức Phật Đại bi, biểu tượng cho tinh túy Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng), Tam Căn bản (Bản tôn, Thượng sư, Không hành Hộ pháp), và tinh túy của tất cả mười phương chư Phật, để cầu nguyện và được ban gia trì.

14. Luân xa trên trán của Ngài có chữ chủng tử OM (ༀ) màu sắc trắng tỏa sáng bởi Ngài muốn tịnh hóa tất cả những thân nghiệp nhiễm ô, giúp chúng sinh đạt được thành tựu giác ngộ.

15. Luân xa trên cổ họng của Ngài có chữ chủng tử AH (ཨཱཿ) màu sắc đỏ tỏa sáng biểu tượng cho ý muốn của Ngài tịnh hóa được tất cả khẩu nghiệp và sinh lực nghiệp của chúng sinh, thứ đã tạo nên sự đau khổ trong đời sống này.

16. Luân xa tại tim của Ngài có chữ chủng tử HUNG (ཧཱུྃ) màu sắc xanh dương, do bởi Ngài muốn ban trải lòng từ bi, tình yêu thương, trí tuệ cùng tất cả phẩm chất của Bồ đề tâm để có thể giúp tịnh hóa tất cả phiền não, tâm nhiễm ô và đem lại hạnh phúc chân thực cho chúng sinh.

Lúc này, toàn bộ thân khẩu ý của chúng sinh chính là Thân Khẩu Ý giác ngộ của Đức Quan Âm.

Sau khi trải nghiệm sự rạng rỡ của cơ thể Quan Âm, chúng ta tin rằng cơ thể của Ngài có đầy đủ tình yêu thương, lòng từ bi, trí tuệ và những phẩm chất tỏa chiếu.

Đây chính là phần chúng ta triệu thỉnh Đức Quan Âm bên trong, an vị nơi trung tâm Bảo tháp. Và chúng ta hiểu rằng sự giác ngộ, dù ở hình thức hay phẩm chất, không gì khác hơn là trí tuệ vinh quang, phúc lạc, tình yêu vô điều kiện và tánh không, trí tuệ của Đức Phật hợp nhất. 

Quan Âm Tứ Thủ (tượng)
Quan Âm Tứ Thủ (tượng)

Tham khảo về tranh Thangka các vị Phật.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *